Vovinam Đối Kháng
Chủ nhiệm HLV Lê Hoàng Nam SĐT: 0935.464.029 Địa chỉ : 504 / 58C Đ. Kinh Dương Vương, P. Phú Thuận, Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh Khung giờ tập luyện : 16h40 - 18h15 thứ 2,4,6
11 Trừ trường hợp đặc biệt, thủ tục điều tra phải được kết thúc trong thời hạn một năm, và trong mọi trường hợp không quá 18 tháng, kể từ ngày bắt đầu.
12.1 Những Thành viên quan tâm và tất cả các bên quan tâm đến việc điều tra thuế đối kháng được thông báo về những thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu và được tạo mọi cơ hội để cung cấp mọi bằng chứng bằng văn bản mà họ cho là có liên quan đến cuộc điều tra.
12.1.1 Nhà xuất khẩu, nhà sản xuất nước ngoài và các Thành viên quan tâm nhận được phiếu hỏi được sử dụng trong điều tra về thuế đối kháng sẽ có ít nhất 30 ngày để trả lời[40]. Bất kỳ yêu cầu gia hạn trả lời thêm 30 ngày nữasẽ được chú trọng đúng mức, và, khi có lý do chính đáng Cơ quan có thẩm quyền sẽ được chấp nhận vào bất cứ khi nào có thể thực hiện được.
12.1.2 Tùy thuộc vào yêu cầu bảo vệ các thông tin không phổ biến, những bằng chứng được một Thành viên quan tâm hoặc một bên có quan tâm gửi tới bằng văn bản sẽ được sẵn sàng cung cấp nhanh chóng cho các Thành viên quan tâm hay các bên hữu quan tham gia vào cuộc điều tra.
12.1.3 Ngay khi mở cuộc điều tra, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cung cấp bản đầy đủ đơn yêu cầu điều tra quy định tại khoản 1 Điều 11 tới các nhà xuất khẩu đã biết[41] và tới các cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu liên quan và khi có yêu cầu, sẽ cung cấp cho các bên quan tâm liên quan. Các bên cần chú trọng thích đáng việc giữ gìn thông tin không phổ biến quy định tại khoản 4.
12. 2 Các Thành viên và các bên quan tâm, khi giải trình được, cũng có quyền cung cấp những thông tin miệng. Sau khi cung cấp những thông tin miệng đó, các Thành viên và các bên quan tâm phải nộp thông tin đó bằng văn bản. Quyết định của các cơ quan có thẩm quyền điều tra chỉ được dựa vào những thông tin và lập luận ghi trong hồ sơ của mình và đã sẵn sàng cung cấp cho các Thành viên và các bên quan tâm tham gia điều tra, có tính đến một cách đầy đủ yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến.
12. 3 Khi có điều kiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ tạo cơ hội đúng lúc cho các Thành viên và các bên có quan tâm được biết mọi thông tin liên quan tới phần trình bầy của mình, nếu không phải là những thông tin không phổ biến quy định tại khoản 4, và là những thông tin được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng trong điều tra về thuế đối kháng, và để chuẩn bị trình bày trên cơ sở thông tin đó.
12.4 Mọi thông tin mang tính chất bí mật (ví dụ nếu bị tiết lộ sẽ tạo thêm lợi thế cạnh tranh đáng kể cho một đối thủ cạnh tranh hoặc gây ra tác hại cho cá nhân đã cung cấp thông tin đó hay cho một người là nguồn để nhà cung cấp có được thông tin đó), hoặc thông tin được các bên trong cuộc điều tra cung cấp trên cơ sở tin bí mật, và có lý do chính đáng để cơ quan có thẩm quyền coi là thông tin bí mật. Các thông tin đó không được tiết lộ nếu không có sự cho phép cụ thể của bên cung cấp[42].
12.4.1 Cơ quan có thẩm quyền sẽ yêu cầu các Thành viên và các bên quan tâm cung cấp bản tóm tắt không mang tính chất bí mật về các thông tin bí mật đó. Bản cung cấp sẽ mô tả chi tiết đến mức cần thiết để cho phép hiểu một cách đúng mức về nội dung thông tin đã cung cấp được baỏ mật. Trong trường hợp ngoại lệ này, các Thành viên hoặc bên nói trên có thể chỉ ra rằng thông tin đó không thể tóm tắt được. Trong trường hợp ngoại lệ đó, bản trình bày về lý do không thể tóm tắt thông tin phải được cung cấp.
12.4.2 Nếu Cơ quan có thẩm quyền thấy rằng yêu cầu cầu giữ bí mật thông tin không được bảo đảm và nếu người cung cấp thông tin không đồng ý cho công bố thông tin hoặc không cho phép tiết lộ dưới hình thức tóm tắt hoặc khái quát thông tin, Cơ quan có thẩm quyền có thể bỏ qua thông tin đó trừ khi có nguồn thích đáng chứng minh thoả đáng rằng thông tin đó là đúng[43].
12. 5 Trừ trường hợp nêu tại khoản 7, trong quá trình điều tra, cơ quan có thẩm quyền có thể tự mình xác định tính chính xác của thông tin được các Thành viên hay các bên cung cấp mà căn cứ vào đó cơ quan có thẩm quyền đã đưa ra các kết luận của mình.
12. 6 Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra có thể tiến hành điều tra trên lãnh thổ của Thành viên khác khi cần thiết, với điều kiện là phải thông báo kịp thời cho Thành viên hữu quan biết và trừ khi Thành viên đó phản đối việc điều tra. Tiếp nữa cơ quan có thẩm quyền có thể tiến hành điều tra tại trụ sở của một công ty và có thể xem xét bản lưu chứng từ của một công ty nếu: (a) được công ty đó đồng ý và (b) Thành viên liên quan được thông báo và không phản đối. Thủ tục nêu tại phụ lục VI áp dụng đối với các cuộc điều tra tại trụ sở một công ty. Theo yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến, cơ quan có thẩm quyền phải sẵn sàng cung cấp kết quả điều tra, hoặc tiết lộ nội dung về cuộc điều tra, theo quy định tại khoản 8, cho các công ty có liên quan và sẵn sàng cung cấp kết quả đó cho người nộp đơn yêu cầu điều tra.
12. 7 Trong trường hợp bất kỳ Thành viên hoặc bên có quan tâm nào từ chối cho phép tiếp cận hoặc không cung cấp những thông tin cần thiết trong thời hạn hợp lý hoặc cản trở đáng kể việc điều tra, thì quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính khẳng định hay phủ định sẽ được đưa ra trên cơ sở các sự việc thực tế sẵn có.
12. 8 Trước khi ra quyết định cuối cùng, cơ quan có thẩm quyền sẽ thông báo cho mọi Thành viên và bên có quan tâm về những sự việc chủ yếu đã được xem xét và là cơ sở để quyết định việc có áp dụng một biện pháp chính thức. Thông báo đó sẽ dành một thời gian đủ để các bên bảo vệ quyền lợi của họ.
12. 9. Theo Hiệp định này, thuật ngữ "các bên quan tâm" bao gồm:
(i) nhà xuất khẩu hay nhà sản xuất nước ngoài hoặc nhà nhập khẩu một sản phẩm là đối tượng của cuộc điều tra, hoặc hiệp hội sản xuất kinh doanh mà đa số các thành viên là những nhà sản xuất hay xuất khẩu hoặc nhập khẩu sản phẩm đó; và
(ii) một nhà sản xuất một sản phẩm tương tự tại Thành viên nhập khẩu hoặc hiệp hội sản xuất kinh doanh mà đa số các thành viên sản xuất sản phẩm tương tự trên lãnh thổ của Thành viên nhập khẩu.
Danh mục này không ngăn cản các Thành viên cho phép các bên trong nước hay nước ngoài khác với các đối tượng nêu trên được coi là bên quan tâm.
12. 10. Cơ quan có thẩm quyền sẽ tạo cơ hội cho người sử dụng trong ngành sản xuất sản phẩm đang được điều tra, và cho các tổ chức đại diện cho người tiêu dùng trong trường hợp sản phẩm được bán lẻ rộng rãi, được cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra về trợ cấp, thiệt hại và mối quan hệ nhân quả.
12. 11. Cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét một cách hợp lý bất kỳ khó khăn nào mà các bên quan tâm gặp phải, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, trong việc cung cấp thông tin được yêu cầu, và sẽ dành cho họ sự trợ giúp khi có thể.
12. 12 Thủ tục nêu trên không nhằm ngăn cản cơ quan có thẩm quyền của một Thành viên khẩn trương tiến trình điều tra, ra quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính chất khẳng định hay phủ định hoặc ngăn cản việc áp dụng những biện pháp tạm thời hay cuối cùng, phù hợp với các quy định của Hiệp định này.
13.1 Ngay sau khi đơn yêu cầu theo quy định của Điều 11 được chấp nhận, và tại bất kỳ thời điểm nào trước khi mở cuộc điều tra, Thành viên có sản phẩm có thể là đối tượng của cuộc điều tra sẽ được mời tham vấn với mục đích làm sáng tỏ tình hình về những vấn đề nêu tại khoản 2 Điều 11và đạt được giải pháp do hai bên thoả thuận.
13.2 Hơn nữa, trong giai đoạn điều tra, Thành viên có sản phẩm có thể là đối tượng của cuộc điều tra đó sẽ được tạo cơ hội hợp lý để tiếp tục tham vấn, nhằm mục đích làm rõ tình hình thực tế và đi đến một giải pháp do hai bên cùng thoả thuận[44].
13.3 Trên tinh thần không gây ảnh hưởng đến nghĩa vụ tạo cơ hội hợp lý để tham vấn, các quy định về tham vấn này không nhằm ngăn cản các cơ quan có thẩm quyền của một Thành viên khẩn trương tiến trình điều tra, đi đến những quyết định ban đầu hay cuối cùng, mang tính định khẳng định hay phủ định hoặc ngăn cản việc áp dụng những biện pháp tạm thời hay cuối cùng, theo các quy định của Hiệp định này.
13.4 Thành viên dự định mở cuộc điều tra hoặc đang tiến hành một cuộc điều tra, khi được yêu cầu, sẽ cho phép (những) Thành viên có sản phẩm là đối tượng bị điều tra được tiếp cận các bằng chứng không không phổ biến, kể cả các bản tóm tắt không phổ biến của các thông số bí mật đang được sử dụng để bắt đầu hoặc tiến hành điều tra.
Theo Phần V, bất kỳ phương pháp nào được Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sử dụng trong tính toán mức lợi ích mà người nhận trợ cấp được hưởng theo khoản 1 Điều 1 phải được quy định trong luật quốc gia hoặc được nêu trong văn bản hướng dẫn thi hành của Thành viên liên quan và việc vận dụng vào mỗi trường hợp cụ thể phải minh bạch và được giải thích thích đáng. Hơn nữa, phương pháp tính toán phải phù hợp với các hướng dẫn sau đây.
(a) việc chính phủ góp vốn cổ phần không được coi là một lợi ích, trừ khi quyết định đầu tư có thể bị coi là không phù hợp với thực tiễn hoạt động đầu tư thông thường (kể cả việc cấp vốn đầu tư có nhiều rủi ro) của các đầu tư tư nhân trên lãnh thổ Thành viên;
(b) một khoản vay từ nguốn vốn chính phủ sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi có sự chênh lệch giữa khoản tiền mà công ty được vay trả cho chính phủ với số tiền lẽ ra phải trả cho một khoản vay thương mại tương tự có thể có được khi vay vốn trên thị trường. Trong trường hợp có sự chênh lệch, lợi ích là mức chênh lệch giữa hai khoản phải trả đó;
(c) bảo lãnh vay của chính phủ sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi có sự chênh lệch giữa khoản tiền mà công ty được bảo lãnh vay trả cho khoản vay được chính phủ bảo lãnh với số tiền lẽ ra phải trả cho một khoản vay thương mại tương tự trong trường hợp không có sự bảo lãnh của chính phủ; Trong trường hợp này nguồn lợi là khoản chênh lệch giữa hai khoản tiền phải trả, có tính đến sự chênh lệch về lệ phí.
(d) việc chính phủ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ hoặc mua hàng sẽ không được coi là đem lại lợi ích, trừ khi việc cung cấp đó được thanh toán với một số tiền ít hơn mức thích đáng hoặc thanh toán tiền mua hàng cao hơn mức thích đáng. Thanh toán thích đáng sẽ được xác định trong tương quan với điều kiện thị trường phổ biến đối với hàng hoá hoặc dịch vụ tại nước cung cấp hay tiến hành mua (kể cả giá, chất lượng, tính sẵn có, điều kiện thị trường, vận chuyển hay các điều kiện khác về mua và bán).
15.1 Việc xác định thiệt hại theo Điều VI Hiệp định GATT 1994 phải dựa trên bằng chứng khẳng định và với nội dung xem xét khách quan đồng thời (a) khối lượng nhập khẩu hàng có trợ cấp và tác động của nhập khẩu được trợ cấp đối với giá cả trên thị trường trong nước của sản phẩm tương tự[46] và (b) tác động tiếp theo của việc nhập khẩu đó với các ngành sản xuất trong nước của các sản phẩm đó.
15.2 Đối với khối lượng nhập khẩu hàng hoá được trợ cấp, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xét xem có sự tăng trưởng đáng kể nhập khẩu hàng hoá có trợ cấp hay không, hoặc tính theo mức tuyệt đối hay tương đối, khối lượng sản xuất hoặc tiêu thụ tại Thành viên nhập khẩu. Đối với tác động của hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp lên giá, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xét xem có sự giảm giá đáng kể do hàng nhập khẩu được trợ cấp hay không so với giá của sản phẩm tương tự tại Thành viên nhập khẩu, hoặc tác động của việc nhập khẩu đó có ép giá tới mức đáng kể hay ngăn cản giá hàng tăng lên, so với sự thay đổi giá cả bình thường nếu trong trường hợp khác hay không. Cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây sẽ có vai trò quyết định đối với việc xem xét nói trên.
15.3 Khi hàng nhập khẩu từ hai hay nhiều nước cùng là đối tượng điều tra chịu thuế đối kháng, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra có thể đánh giá tác động gộp của nhập khẩu từ các nước đó chỉ khi đã xác định được (a) tổng số trợ cấp được áp dụng liên quan tới nhập khẩu từ từng nước cao hơn mức tối thiểu (de minimis) nêu tại khoản 9 Điều 11và khối lượng nhập khẩu từ từng nước đó không phải là không đáng kể và (b) căn cứ vào những điều kiện cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu với nhau và điều kiện cạnh tranh giữa hàng nhập khẩu và hàng trong nước dẫn đến việc đánh giá gộp các tác động của hàng nhập khẩu là thích hợp.
15.4 Việc xem xét tác động của hàng nhập khẩu được trợ cấp đối với ngành sản xuất trong nước sẽ bao gồm cả việc đánh giá mọi yếu tố và chỉ tiêu kinh tế liên quan ảnh hưởng tới tình trạng của ngành, kể cả sự sụt giảm sản lượng, số lượng bán ra, thị phần, lợi nhuận hay năng suất, thu hồi vốn đầu tư hay tỷ lệ khai thác công suất hiện tại hoặc tiềm tàng trong tương lai; những yếu tố ảnh hưởng giá cả trong nước; những tác động tiêu cực đối với luân chuyển vốn, lượng hàng dự trữ, việc làm, tiền lương, sự tăng trưởng, khả năng tăng vốn hay đầu tư, và trong trường hợp liên quan tới nông nghiệp, sẽ đánh giá việc các chương trình hỗ trợ của chính phủ có vì thế mà thêm nặng gánh hay không. Danh sách nêu trên chưa phải là tất cả và cũng không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây có vai trò quyết định đối với việc xem xét nói trên.
15.5 Phải chỉ ra được rằng hàng nhập khẩu được trợ cấp, chính vì sự trợ cấp[47] đó đã gây thiệt hại nói trong Hiệp định này. Việc chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và sự tổn hại đối với một ngành sản xuất trong nước sẽ được dựa trên kết quả xem xét mọi bằng chứng liên quan trước cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền cũng xem xét bất kỳ yếu tố nào đã biết đến ngoài việc nhập khẩu được trợ cấp nhưng cũng gây thiệt hại đến ngành sản xuất trong nước, và những thiệt hại do các yếu tố đó gây ra sẽ không được coi là do việc nhập khẩu được trợ cấp. Những yếu tố có thể liên quan như đề cập ở trên sẽ bao gồm, nhưng không giới hạn bởi, khối lượng và giá cả hàng cùng chủng loại không được trợ cấp, giảm nhu cầu hay thay đổi cơ cấu tiêu thụ, việc hạn chế thương mại và cạnh tranh giữa các nhà sản xuất trong và ngoài nước, sự phát triển của công nghệ và khả năng xuất khẩu và năng suất của ngành sản xuất trong nước.
15.6 Tác động của nhập khẩu được trợ cấp phải được đánh giá trong tương quan với sản lượng sản xuất trong nước một sản phẩm tương tự khi số liệu cho phép xác định sản lượng sản xuất đó trên cơ sở những chỉ tiêu như quy trình sản xuất, tình hình bán ra và lợi nhuận của nhà sản xuất. Nếu việc xác định sản lượng đó không thể thực hiện được, tác động của nhập khẩu được trợ cấp sẽ được đánh giá thông qua việc xem xét sản lượng của một nhóm hoặc chủng loại nhỏ hẹp nhất của sản phẩm, bao gồm cả sản phẩm tương tự mà qua đó có thể có được thông tin cần thiết cho việc đánh giá.
15.7 Việc xác định mối đe doạ gây ra thiệt hại vật chất sẽ được dựa trên sự thật chứ không dựa trên sự suy đoán, quy kết hay khả năng xa xôi. Sự thay đổi hoàn cảnh có thể tạo ra một tình huống theo đó một trợ cấp có thể gây ra thiệt hại phải được nhận thấy trước một cách rõ ràng và sát thực. Khi ra một quyết định về mối đe doạ gây thiệt hại vật chất, cơ quan có thẩm quyền đang điều tra sẽ xem xét, nhưng không giới hạn bởi những yếu tố sau đây:
(i) tính chất của trợ cấp và những tác động về mặt thương mại có khả năng xảy ra;
(ii) sự gia tăng đáng kể tỷ lệ nhập khẩu hàng được trợ cấp vào thị trường trong nước cho thấy khả năng nhập khẩu tăng mạnh;
(iii) khả năng của một nhà xuất khẩu đã sẵn sàng, hay sắp hoặc đã tăng lên đáng kể cho thấy khả năng gia tăng xuất khẩu sản phẩm được trợ cấp đến thị trường Thành viên nhập khẩu, có tính đến sự hiện diện những khả năng của những thị trường xuất khẩu khác trong tiếp nhận năng lực xuất khẩu bổ sung;
(iv) việc xem xét liệu nhập khẩu đang xâm thị với mức giá sẽ có khả năng gây tác động ép giá hay loại trừ trên thị trường trong nước, và có khả năng tăng nhu cầu nhập khẩu thêm nữa hay không; và
(v) lượng dự trữ của sản phẩm đang được điều tra.
Không nhất thiết là một hay nhiều nhân tố đã kể trên đây sẽ có vai trò quyết định, nhưng tổng thể các nhân tố đó sẽ phải dẫn đến kết luận rằng việc tiếp tục trợ cấp rất dễ xảy ra và có thể gây ra tổn hại vật chất, trừ khi một hành động bảo vệ được thực thi.
15.8 Đối với những trường hợp khi mà sự tổn thất bị đe doạ bởi hàng nhập khẩu được trợ cấp, việc áp dụng thuế đối kháng sẽ được xem xét và quyết định.
16.1 Trong Hiệp định này, ngoại trừ trường hợp được quy định tại khoản 2, thuật ngữ “ngành sản xuất trong nước” được hiểu là nói đến những nhà sản xuất cùng một sản phẩm tương tự hay những nhà sản xuất có sản lượng chung chiếm đa số trong tổng sản xuất trong nước của những sản phẩm đó, trừ khi nhà sản xuất liên quan[48] tới những nhà xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc chính họ là nhà nhập khẩu những sản phẩm được coi là hàng nhập khẩu được trợ cấp hay nhà nhập khẩu những sản phẩm tương tự từ một nước khác, và trong trường hợp này, thuật ngữ “ngành sản xuất trong nước” được hiểu là các nhà sản xuất còn lại.
16.2 Trong những hoàn cảnh đặc biệt, lãnh thổ của một Thành viên có thể được phân định thành hai hay nhiều thị trường cạnh tranh và các nhà sản xuất trong phạm vi mỗi thị trường có thể được coi là một ngành sản xuất riêng biệt nếu (a) các nhà sản xuất trong phạm vi thị trường đó bán toàn bộ hay hầu như toàn bộ sản lượng sản phẩm của họ trên thị trường đó, và (b) nhu cầu của thị trường đó không được đáp ứng ở mức độ đáng kể từ nguồn sản xuất ngoài thị trường đó trên cùng lãnh thổ . Trong những trường hợp này, có thể xác định có tổn hại ngay cả khi phần lớn ngành sản xuất trong nước không bị tổn hại, với điều kiện là có sự tập trung nhập khẩu được trợ cấp vào một thị trường riêng biệt như vậy và hơn nữa là nhập khẩu được trợ cấp đó đang gây ra tổn hại cho những nhà sản xuất dại diện cho toàn bộ hay hầu như toàn bộ nền sản xuất trên thị trường đó.
16.3 Khi ngành sản xuất trong nước được hiểu là nói đến những nhà sản xuất trong một địa bàn nào đó, ví dụ như thị trường nói tại khoản 2, thuế đối kháng chỉ đánh vào những những sản phẩm đã nêu và được giao cho tiêu dùng trong địa bàn đó. Khi luật hiến pháp của Thành viên nhập khẩu không cho phép đánh thuế đối kháng dựa trên cơ sở nêu trên, Thành viên nhập khẩu có thể đánh thuế đối kháng không hạn chế chỉ khi (a) nhà xuất khẩu trước đó đã có cơ hội để ngừng xuất khẩu hàng vào địa bàn đó với giá có trợ cấp, hoặc là có sự bảo đảm quy định tại Điều 18 nhưng đã không khẩn trương đưa ra sự đảm bảo đó và (b) thuế đối kháng này không được chỉ đánh vào sản phẩm của những nhà sản xuất cụ thể cung cấp hàng cho khu vực này.
16.4 Khi hai hay nhiều nước, theo quy định tại điểm 8 (a) Điều XXIV Hiệp định GATT 1994, đã đạt tới trình độ hội nhập đến mức có những đặc điểm của một thị trường chung, thống nhất, ngành sản xuất của toàn bộ khu vực đó sẽ được coi là ngành sản xuất trong nước như nêu tại khoản 1 và khoản 2.
16.5 Các quy định của khoản 6 Điều 15 sẽ được áp dụng đối với Điều này.
17.1 Các biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng khi:
(a) việc điều tra được bắt đầu tiến hành phù hợp với các quy định của Điều 11, đã có thông báo công khai về việc điều tra này và các Thành viên và các bên quan tâm đã được tạo cơ hội thích đáng dể cung cấp thông tin và nhận xét;
(b) đã xác định sơ bộ rằng có tồn tại trợ cấp và việc nhập khẩu được trợ cấp đã gây tổn hại cho ngành sản xuất trong nước; và
(c) Cơ quan có thẩm quyền liên quan cho rằng các biện pháp đó là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại xảy ra trong quá trình điều tra.
17.2 Các biện pháp tạm thời có thể dưới hình thức thuế đối kháng tạm thời được bảo đảm bằng việc đặt cọc tiền tương đương với giá trị trợ cấp được tạm tính.
17.3 Các biện pháp tạm thời không được áp dụng trước quá 60 ngày, kể từ ngày bắt đầu điều tra.
17.4 Các biện pháp tạm thời chỉ được giới hạn trong thời gian ngắn nhất có thể, không vượt quá bốn tháng.
17.5 Các quy định có liên quan tại Điều 19 phải được tuân thủ trong quá trình áp dụng các biện pháp tạm thời.
18.1 Quá trình điều tra[49] có thể bị đình chỉ hay chấm dứt mà không áp dụng các biện pháp tạm thời hay thuế đối kháng ngay khi nhận được cam kết tự nguyện với nội dung:
(a) chính phủ của Thành viên xuất khẩu chấp nhận xoá bỏ hay hạn chế trợ cấp hoặc có những biện pháp khác có cùng kết quả; hoặc
(b) nhà xuất khẩu đồng ý xem xét lại giá sao cho Cơ quan có thẩm quyền đang điều tra thấy rằng biện pháp trợ cấp không còn gây ra thiệt hại. Việc tăng giá theo các cam kết này không cần cao quá mức cần thiết để triệt tiêu khối lượng trợ cấp. Có thể chấp nhận mức tăng giá thấp hơn khối lượng trợ cấp nếu thấy đã thích đáng để khắc phục thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất trong nước.
18.2. Không được yêu cầu cam kết hay chấp nhận cam kết trừ khi cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đang nhập khẩu đã có sự xác định ban đầu là có trợ cấp và có thiệt hại do trợ cấp gây ra và trong trường hợp cam kết do nhà xuất khẩu thực hiện, đã được Thành viên đang xuất khẩu thoả thuận.
18.3 Các cam kết không cần thiết phải được chấp nhận nếu cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu thấy việc chấp nhận của mình là không thực tế, ví dụ nếu số lượng các nhà xuất khẩu hiện tại hoặc tiềm tàng quá lớn hoặc có những lý do khác, kể cả lý do thuộc chính sách chung. Nếu có trường hợp như vậy phát sinh và khi có điều kiện thực hiện, cơ quan có thẩm quyền sẽ cho nhà xuất khẩu biết lý do tại sao việc chấp nhận cam kết là không thực tế, và ở mức độ có thể, sẽ tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu trình bày ý kiến của mình.
18.4 Nếu cam kết được chấp nhận, nhưng Thành viên xuất khẩu mong muốn hoặc Thành viên đang nhập khẩu quyết định hoàn thành cuộc điều tra thì cuộc điều tra sẽ được tiếp tục đến khi hoàn thành. Trong trường hợp cuộc điều tra đi đến kết luận không thuận đối với trợ cấp và sự tổn hại, bản cam kết sẽ tự động mất hiệu lực, ngoại trừ trường hợp kết luận đó chủ yếu là do có bản cam kết. Trong trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền liên quan có thể yêu cầu cam kết tiếp tục có hiệu lực một thời gian hợp lý phù hợp với các quy định của Hiệp định này. Trong trường hợp xác định là có trợ cấp và tổn hại thì cam kết vẫn tiếp tục có hiệu lực, theo những điều khoản của nó và các quy định của Hiệp định này.
18.5 Cơ quan có thẩm quyền của Thành viên đang nhập khẩu có thể gợi ý đưa ra cam kết về giá, nhưng nhà xuất khẩu không bị buộc phải đưa ra cam kết đó. Việc chính phủ Thành viên hay nhà xuất khẩu không đưa ra đề nghị có cam kết hoặc không chấp nhận lời đề nghị đó thì trong mọi trường hợp sẽ không ảnh hưởng đến việc xem xét đánh giá về vụ việc đó. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền được tự do xác định rằng mối đe doạ gây tổn hại sẽ càng trở nên hiện thực nếu việc nhập khẩu được trợ cấp vẫn được tiếp tục duy trì.
18. 6. Cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ chính phủ hay nhà xuất khẩu nào có cam kết đã được chấp nhận cung cấp định kỳ thông tin liên quan tới việc thực hiện cam kết và cho phép kiểm tra lại các số liệu liên quan. Trong trường hợp vi phạm cam kết, thì căn cứ vào Hiệp định này và các quy định của Hiệp định, cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu có thể áp dụng ngay những biện pháp tạm thời trên cơ sở thông tin tối đa có được. Trong trường hợp đó, có thể đánh thuế đối kháng chính thức, theo Hiệp định này, đối với hàng nhập khẩu đã được đưa vào tiêu thụ không quă 90 ngày trước khi biện pháp tạm thời được áp dụng, ngoại trừ việc đánh giá mang tính hồi tố này không áp dụng đối với hàng nhập khẩu được đưa vào trước khi có sự vi phạm cam kết.
19.1 Nếu, sau khi đã cố gắng hợp lý để hoàn thành việc tham vấn, một Thành viên xác định chắc chắn rằng có trợ cấp và mức trợ cấp, và rằng thông qua trợ cấp, hàng nhập khẩu được trợ cấp đã gây ra tổn hại, thì Thành viên đó có thể đánh thuế đối kháng theo quy định của Điều này, trừ khi việc trợ cấp được rút bỏ.
19.2 Khi mọi yêu cầu để có thể áp dụng thuế đối kháng đã được thoả mãn, thì quyết định có đánh thuế đối kháng hay không và số tiền thuế đối kháng sẽ thu phải bằng mức trợ cấp hay thấp hơn mức trợ cấp, do cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đưa ra. Các Thành viên mong muốn rằng việc đánh thuế đối kháng trên lãnh thổ của tất cả các Thành viên sẽ không cứng nhắc và rằng mức thuế đối kháng nên thấp hơn tổng mức trợ cấp, nếu mức thuế đối kháng thấp hơn này là đủ để khắc phục thiệt hại với ngành sản xuất trong nước, và mong muốn rằng thủ tục lập ra cho phép các cơ quan có thẩm quyền tính toán đầy đủ đến và thể hiện được tính đại diện quyền lợi của mọi bên trong nước[50] liên quan mà quyền lợi của họ có thể bị tổn hại do việc áp dụng thuế đối kháng.
19.3 Khi thuế đối kháng được áp dụng đối với bất kỳ sản phẩm nào, thuế đối kháng phải được đánh, với mức thuế phù hợp với từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử với sản phẩm nhập khẩu từ mọi nguồn đã kết luận là có trợ cấp và gây ra thiệt hại, trừ hàng nhập khẩu từ những nguồn đã từ bỏ việc áp dụng trợ cấp hay từ những nguồn đã có cam kết theo quy định của Hiệp định này và đã được chấp nhận. Bất kỳ nhà xuất khẩu nào có hàng xuất khẩu phải chính thức chịu thuế đối kháng nhưng chưa bị điều tra với lý do không phải là từ chối hợp tác trong điều tra, sẽ có quyền yêu cầu được tiến hành xem xét lại khẩn trương để cơ quan có thẩm quyền đang điều tra xác định ngay một mức thuế suất đối kháng cụ thể áp dụng đối với nhà xuất khẩu đó.
19.4 Không đánh thuế đối kháng[51] đối với hàng nhập khẩu vượt quá số tiền trợ cấp đã được kết luận là có tồn tại, tính theo đơn vị của sản phẩm được trợ cấp và xuất khẩu.
20.1 Các biện pháp tạm thời và thuế đối kháng sẽ chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm đưa vào tiêu thụ sau thời điểm quyết định được đưa ra theo quy định của khoản 1 Điều 17 và khoản 1 Điều 19 có hiệu lực, tuỳ thuộc vào những ngoại lệ quy định tại Điều này.
20.2 Khi đã xác định được có tổn hại ( không phải là mối đe doạ về một tổn hại hoặc về việc gây chậm trễ cho việc thiết lập một ngành sản xuất trong nước), hoặc trong trường hợp đã xác định được có mối đe doạ gây tổn hại mà nếu không có biện pháp tạm thời thì hàng nhập khẩu được trợ cấp đã có thể bị xác định là có gây ra tổn hại, thuế đối kháng có thể được tính hồi tố đối với thời gian đã áp dụng biện pháp tạm thời, nếu có.
20.3 Nếu mức thuế đối kháng ở mức cao hơn giá trị đã đặt cọc bảo đảm bằng tiến mặt hay bằng bảo lãnh, sẽ không thu thêm số chênh lệch nữa. Ngược lại nếu mức thuế đối kháng thấp hơn giá trị đã đặt cọc bằng tiền mặt hoặc bằng bảo lãnh, thì khoản chênh lệch sẽ được hoàn trả ngay.
20.4 Trừ trường hợp quy định tại khoản 2, khi đã xác định được là có mối đe doạ thiệt hại hay thực sự gây chậm trễ cho việc thiết lập một ngành sản xuất trong nước (nhưng thiệt hại chưa xảy ra) thuế đối kháng chính thức chỉ được áp dụng kể từ ngày xác định là có đe doạ gây thiệt hại hoặc thực gây chậm trễ, và bất kỳ khoản bảo đảm đặt cọc bằng tiền mặt nào trong thời gian áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ được hoàn trả và các bảo lãnh sẽ được giải toả ngay.
20.5 Khi có xác định cuối cùng là không có trợ cấp và thiệt hại thì bất kỳ khoản bảo đảm nào đã đặt cọc bằng tiền mặt trong thời gian áp dụng các biện pháp tạm thời sẽ được hoàn trả và bất kỳ bảo lãnh, bảo đảm sẽ được giải toả nhanh chóng.
20.6 Trong những hoàn cảnh nghiêm trọng khi hàng hóa trợ cấp đã được nêu ra, cơ quan có thẩm quyền thấy rằng thiệt hại là khó có thể khắc phục được do nhập khẩu với khối lượng lớn trong một thời gian ngắn sản phẩm đã được trợ cấp không phù hợp các quy định của GATT 1994 và của Hiệp định này và thấy cần thiết để ngăn ngừa tình trạng đó tái diễn, thì cơ quan có thẩm quyền có thể tính hồi tố thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu này, thuế đối kháng chính thức có thể được tính đối với hàng nhập khẩu đã đưa vào tiêu dùng trước đó nhưng không quá 90 ngày kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện pháp tạm thời.
21.1 Thuế đối kháng sẽ có hiệu lực chỉ khi và ở chừng mực cần thiết để đối kháng lại việc trợ cấp đang gây ra thiệt hại.
21.2 Cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét lại nhu cầu có tiếp tục đánh thuế đối kháng không, khi tự mình thấy cần hoặc theo yêu cầu của bên quan tâm có bằng chứng thực tế chứng minh nhu cầu cần xem xét lại việc đánh thuế với điều kiện là đã có một thời gian hợp lý kể từ khi áp dụng thuế đối kháng. Các bên quan tâm có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét xem liệu việc tiếp tục áp dụng thuế đối kháng có còn cần thiết để đối với việc triệt tiêu tác dụng trợ cấp hay không, liệu tổn hại có khả năng tiếp diễn hoặc tái hiện hay không nếu như thuế đối kháng đã ngừng hoặc thay đổi. Nếu sau khi xem xét lại theo khoản này, cơ quan có thẩm quyền quyết định rằng thuế đối kháng không còn cơ sở, thì thuế đối kháng sẽ được chấm dứt ngay lập tức.
21.3 Cho dù có quy định tại khoản 1 và 2, thuế đối kháng sẽ được kết thúc vào ngày không chậm quá năm năm, kể từ ngày được áp dụng (hoặc kể từ ngày rà soát gần nhất theo quy định tại khoản 2, nếu việc rà soát bao gồm cả thuế và tổn hại, hoặc theo quy định của khoản này) trừ trường hợp trước khi đến ngày đó, cơ quan có thẩm quyền khi tự mình tiến hành rà soát, hoặc theo yêu cầu có đầy đủ bằng chứng hợp lệ của hoặc thay mặt cho ngành công nghiệp trong nước, được đưa ra trong một thời gian hợp lý trước ngày kết thúc thời hạn, quyết định rằng việc ngừng đánh thuế có khả năng làm cho trợ cấp và tổn hại tiếp diễn hoặc tái diễn[52]. Trong thời gian chờ kết luận của việc xem xét đó, có thể tiếp tục duy trì thuế đối kháng.
21.4 Các quy định của Điều 12 về bằng chứng và thủ tục áp dụng đối với việc rà soát phải được thực hiện theo Điều này. Việc xem xét như vậy sẽ được tiến hành khẩn trương và thông thuờng sẽ được kết luận trong vòng 12 tháng, kể từ ngày bắt đầu rà soát.
21.5 Các quy định của Điều này sẽ được áp dụng tương thích đối với các cam kết được chấp nhận theo quy định của Điều 18.
22.1 Khi các cơ quan có thẩm quyền thấy rằng có đủ bằng chứng để bắt đầu việc điều tra về trợ cấp theo Điều 11, cơ quan có thẩm quyền sẽ công bố và thông báo cho (các) Thành viên có sản phẩm là đối tượng của việc điều tra này cũng như thông báo cho các bên quan tâm khác, mà cơ quan có thẩm quyền biết được.
22.2 Công bố về việc bắt đầu tiến hành điều tra hoặc cung cấp dưới hình thức một bản báo cáo riêng[53], phải bao gồm những nội dung chính sau đây:
(i) tên nước xuất khẩu và sản phẩm liên quan;
(ii) ngày bắt đầu tiến hành điều tra ;
(iii) mô tả về trợ cấp sẽ bị điều tra;
(iv) tóm tắt những yếu tố tạo nên cơ sở cho rằng có thiệt hại xảy ra;
(v) địa chỉ giao dịch để liên hệ với người đại diện của Thành viên quan tâm và bên có quan tâm;
(vi) thời hạn cho phép các Thành viên quan tâm hay các bên quan tâm có thể trình bày quan điểm.
22.3 Việc xác định sơ bộ hoặc cuối cùng là có hay không có trợ cấp quyết định chấp nhận cam kết nói tại Điều 18, cũng như việc xác định cam kết hết hiêu lực hay kết thúc việc áp dụng thuế đối kháng, sẽ được thông báo công khai. Thông báo hay bản báo cáo riêng thay thế phải có đủ những chi tiết về kết quả điều tra và kết luận của cơ quan có thẩm quyền điều tra về cả vấn đề áp dụng luật lẫn nội dung vụ việc mà cơ quan có thẩm quyền điều tra coi là quan trọng. Thông báo và báo cáo nói trên sẽ được gửi tới (những) Thành viên có sản phẩm đang được điều tra hay đối tượng trong cam kết cũng như được gửi tới bên liên quan mà cơ quan có thẩm quyền biết.
22.4 Thông báo công bố việc áp dụng các biện pháp tạm thời hoặc nếu không bằng một báo cáo riêng biệt, phải giải thích chi tiết quyết định sơ bộ về sự tồn tại của trợ cấp và tổn hại, và phải đề cập thực chất vấn đề và luật dẫn tới việc chấp nhận hay bác bỏ một lập luận . Bản thông báo hay báo cáo đó sẽ lưu ý đúng mức tới yêu cầu bảo vệ thông tin bí mật, và phải bao hàm những nội dung cụ thể sau đây:
(i) tên nhà cung cấp hoặc, khi điều này không thực tế, tên nước cung cấp có liên quan;
(ii) mô tả sản phẩm ở nước đáp ứng nội dung khai báo hải quan;
(iii) trị giá trợ cấp đã xác định được và cơ sở đã được dùng để xác định có trợ cấp;
(iv) các cân nhắc có liên quan tới sự xác định có tổn hại như đã nêu tại Điều 15;
(i) những lý do chính đã dẫn tới kết luận.
22.5 Công bố về kết thúc hay đình chỉ điều tra trong trường hợp điều tra đã xác định là có trợ cấp và dẫn tới đánh thuế đối kháng hay chấp nhận cam kết, hoặc nếu không phải là một công bố dưới hình thức một báo cáo riêng biệt, sẽ có mọi thông tin có liên quan về những vấn đề áp dụng luật hoặc nội dung vụ việc và lý do dẫn tới áp dụng biện pháp cuối cùng hay chấp nhận cam kết, có lưu ý đúng mức đến yêu cầu bảo vệ thông tin không phổ biến. Đặc biệt, công bố hay báo cáo sẽ có những thông tin nói tại khoản 4, cũng như lý do dẫn đến chấp nhận hay bác bỏ lập luận hoặc khiếu nại liên quan của các Thành viên quan tâm và của người xuất khẩu và người nhập khẩu.
22.6 Thông báo công khai về việc kết thúc hay đình chỉ điều tra sau khi chấp nhận cam kết theo Điều 18, hoặc dưới hình thức một bản báo cáo riêng biệt, sẽ bao gồm phần nội dung không mang tính chất bí mật của bản cam kết đó.
22.7 Các quy định của Điều này được áp dụng, với những điều chỉnh thích hợp, nếu có, với việc bắt đầu và kết thúc việc rà soát nói tại Điều 21 và đối với những quyết định nói tại Điều 20 về hồi tố đối với thuế đối kháng.
Trong trường hợp luật pháp quốc gia của một Thành viên có những quy định về các biện pháp thuế đối kháng thì thành viên đó sẽ duy trì các cơ quan xét xử tư pháp, trọng tài hoặc hành chính nhằm mục đích xem xét lại một cách nhanh chóng các quyết định hành chính liên quan tới việc xác định cuối cùng việc có hay không có trợ cấp hoặc thiệt hại cũng như kết quả xem xét lại việc xác định đó theo Điều 21. Các cơ quan xét xử và thủ tục này phải độc lập với cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm đánh giá hay rà soát những vấn đề là đối tượng nói đến ở đây, và sẽ tạo cơ hội cho tất cả các bên liên quan đã tham gia vào thủ tục hành chính và chịu tác động trực tiếp hay đơn lẻ của quyết định hành chính đó, được tham dự vào việc rà soát.
24.1 Nay thành lập Uỷ ban về trợ cấp và các biện pháp đối kháng gồm đại diện của mỗi Thành viên. Uỷ ban tự bầu ra Chủ tịch và họp ít nhất mỗi năm hai lần ngoài các cuộc họp theo yêu cầu của bất kỳ Thành viên nào theo quy định của Hiệp định này. Uỷ ban sẽ thực hiện những trách nhiệm theo quy định của Hiệp định này hoặc do các Thành viên giao phó, và tạo điều kiện để các Thành viên có cơ hội tham vấn bất kỳ vấn đề gì liên quan tới việc triển khai Hiệp định này và thực hiện các mục tiêu của Hiệp định. Ban Thư ký WTO sẽ là Ban thư ký cho Uỷ ban.
24.2 Uỷ ban có thể thành lập các cơ quan trực thuộc nếu thấy phù hợp.
24.3 Uỷ ban sẽ thành lập một Nhóm các Chuyên gia Thường trực (PGE) gồm năm cá nhân độc lập, có trình độ bậc cao trong lĩnh vực trợ cấp và quan hệ thương mại. Uỷ ban sẽ bầu chọn các chuyên gia và mỗi năm sẽ thay thế một thành viên trong nhóm. Nhóm PGE có thể được yêu cầu hỗ trợ ban hội thẩm, như quy định tại khoản 5 Điều 4. Uỷ ban cũng có thể yêu cầu họ cho ý kiến tư vấn về sự tồn tại hoặc tính chất của bất kỳ trợ cấp nào.
24.4 PGE có thể được bất kỳ Thành viên nào tham vấn và có thể có ý kiến tư vấn về tính chất của bất kỳ loại trợ cấp nào mà một Thành viên dự kiến duy trì hay áp dụng mới. Ý kiến tư vấn đó không được phổ biến và không được sử dụng khi tiến hành thủ tục tố tụng nêu tại Điều 7.
24.5 Khi thực hiện chức năng của mình, Uỷ ban và các cơ quan trực thuộc đều có thể tham vấn và tìm thông tin từ bất kỳ nguồn nào được coi là cần thiết. Tuy nhiên trước khi Uỷ ban hay cơ quan trực thuộc tìm thông tin trong phạm vi thẩm quyền của một Thành viên, Thành viên đó sẽ được thông báo trước.
PHẦN VII : THÔNG BÁO VÀ GIÁM SÁT
25.1 Các Thành viên thoả thuận rằng, không gây ảnh hưởng đến các quy định tại khoản 1 Điều XVI Hiệp định GATT 1994, sẽ nộp thông báo về trợ cấp không chậm hơn ngày 30 tháng 6 hàng năm và sẽ tuân thủ các quy định từ khoản 2 đến khoản 6.
25.2 Các Thành viên sẽ thông báo về mọi khoản trợ cấp nêu tại khoản 1 Điều 1, thuộc loại trợ cấp riêng biệt theo nghĩa của Điều 2, được duy trì hay áp dụng trên lãnh thổ của mình.
25.3 Nội dung thông báo phải đủ chi tiết cụ thể để các Thành viên khác có thể đánh giá tác động thương mại của nó và hiểu về hoạt động của chương trình trợ cấp được thông báo. Về phương diện này và không làm ảnh hưởng đến nội dung và hình thức bản các câu hỏi về trợ cấp[54], các Thành viên sẽ đảm bảo rằng thông báo sẽ gồm những thông tin sau đây:
(i) hình thức trợ cấp (ví dụ như các khoản thu hoặc cấp, cho vay, ưu đãi về thuế);
(ii) trợ cấp tính theo đơn vị hoặc khi không thể tính cụ thể được, là tổng trị giá hay số tiền trợ cấp cả năm ngân sách dành cho trợ cấp (nếu có thể nêu mức trợ cấp trung bình tính theo đơn vị đã thực hiện năm trước);
(iii) mục tiêu hoặc mục đích về mặt chính sách của trợ cấp;
(iv) thời hạn trợ cấp và/ hoặc thời hạn khác gắn liền với trợ cấp;
(v) số liệu thống kê cho phép đánh giá tác động thương mại của trợ cấp.
25.4 Khi các điểm cụ thể nêu tại khoản 3 không được đề cập trong thông báo, thì cần có giải thích lý do ngay trong thông báo đó
25.5 Nếu trợ cấp được áp dụng đối với sản phẩm cụ thể hay một khu vực kinh doanh cụ thể, thì thông báo phải được kết cấu theo sản phẩm hay khu vực đó.
25.6 Thành viên nào thấy rằng trên lãnh thổ của mình không áp dụng các biện pháp nào cần phải thông báo theo quy định tại khoản 1 Điều XVI GATT 1994 và theo Hiệp định này, sẽ thông báo cho Ban Thư ký bằng văn bản.
25.7 Các Thành viên thừa nhận rằng việc thông báo một biện pháp không làm tổn hại đến tính chất pháp lý của biện pháp đó theo Hiệp định GATT 1994 và theo Hiệp định này, hiệu lực của nó theo Hiệp định này, hay ảnh hưởng đến tính chất của biện pháp đó.
25.8 Bất kỳ lúc nào các Thành viên cũng có thể gửi văn bản yêu cầu cung cấp thông tin về tính chất và mức độ của bất kỳ trợ cấp nào được một Thành viên khác áp dụng hay duy trì (kể cả trợ cấp được nêu tại Phần IV), hay yêu cầu giải thích về lý do một biện pháp cụ thể được coi không phải là đối tượng phải thông báo.
25.9 Các Thành viên khi được yêu cầu sẽ cung cấp thông tin được yêu cầu một cách đầy đủ và khẩn trương nhất có thể, và khi được yêu cầu sẽ sẵn sàng cung cấp bổ sung thông tin cho Thành viên có yêu cầu. Đặc biệt, thông tin sẽ được cung cấp chi tiết đến mức có thể cho phép Thành viên yêu cầu có thể đánh giá được tính phù hợp với nội dung của Hiệp định này. Bất kỳ Thành viên nào thấy rằng những thông tin này chưa được cung cấp thì có thể đưa vấn đề ra trước Uỷ ban.
25.10 Bất kỳ Thành viên nào khi thấy một biện pháp được một Thành viên khác áp dụng có tác động như là trợ cấp nhưng không được thông báo phù hợp với các quy định của khoản 1 Điều XVI Hiệp định GATT 1994 và Điều khoản này, thì có thể nêu vấn đề này với Thành viên đó. Nếu sau đó biện pháp được coi là trợ cấp không được thông báo nhanh chóng, thì Thành viên đã nêu trên có thể đưa vấn đề về biện pháp được cho là trợ cấp đó ra Uỷ ban .
25.11 Các Thành viên sẽ thông báo không chậm trễ cho Uỷ ban về mọi hành động tạm thời hay chính thức được thực hiện liên quan tới thuế đối kháng. Mọi báo cáo sẽ được cung cấp sẵn sàng tại Ban Thư ký để các Thành viên khác kiểm tra. Các Thành viên cũng sẽ nộp báo cáo định kỳ nửa năm, về các biện pháp về thuế đối kháng đã áp dụng trong nửa năm qua. Báo cáo nửa năm sẽ được nộp theo mẫu tiêu chuẩn được thoả thuận trước .
25.12 Mỗi Thành viên sẽ thông báo cho Uỷ ban (a) cơ quan nào của mình có thẩm quyền mở và tiến hành điều tra nêu tại Điều 11 và (b) thủ tục trong nước điều chỉnh việc mở và tiến hành điều tra đó.
26.1 Tại phiên họp đặc biệt định kỳ ba năm một lần, Uỷ ban sẽ xem xét các thông báo mới và đầy đủ nhận được theo quy định tại khoản 1 Điều XVI Hiệp định GATT 1994 và khoản 1 Điều 25 của Hiệp định này. Các thông báo được nộp trong những năm giữa hai phiên họp (thông báo cập nhật) sẽ được xem xét tại mỗi phiên họp thường kỳ.
26.2 Uỷ ban sẽ xem xét các báo cáo đã nộp theo quy định tại khoản 11 Điều 25 tại mỗi phiên họp thường kỳ.