Vào cuối triều đại nhà Thanh, công nghệ hiện đại của phương Tây đã ít nhiều được du nhập vào Trung Quốc. Nhờ có những thiết bị hiện đại như máy ảnh, cuộc sống của người dân cũng như những bậc quyền quý đều được ghi lại một cách chân thực.

Từ Hi Thái hậu và phu nhân của các bộ trưởng ngoại giao trong Sảnh Leshou của Di Hòa Viên

Vào cuối triều đại nhà Thanh, Từ Hi thường tiếp đón vợ của các bộ trưởng ngoại giao ở đây. Có thể thấy, ở thời điểm chụp bức ảnh này, Từ Hi Thái hậu vẫn đang ở độ tuổi khá trẻ. Khi "đọ sắc" với những nữ nhân phương Tây bà cũng không hề kém cạnh khi có thần thái ngút ngàn, kiên định nhìn vào ống kính. Bên cạnh đó, trang phục lộng lẫy cùng loạt châu báu được bà diện cũng cho thấy quyền uy thực sự của người đứng đầu đất nước vào thời bấy giờ.

Tám phi tần trong Tử Cấm Thành tụ tập chụp ảnh

Trong bức hình là 8 phi tần vào cuối triều đại nhà Thanh đang cùng ngồi chụp ảnh vào một buổi chiều. Có thể thấy, tất cả trang phục, phụ kiện của họ đều vô cùng lộng lẫy, toát lên dáng vẻ giàu sang, phú quý. Theo thông lệ, người ngồi hàng đầu luôn được cho là có chức vị và quyền lực cao hơn, tiếp đó là đến những người đứng sau.

Di Hòa Viên là công trình kiến trúc cung điện được xây dựng vào năm Càn Long thứ mười lăm và nằm giữa chân nam núi Trường Sinh và bờ bắc hồ Côn Minh. Nó có tổng chiều dài 728 mét, tổng cộng 273 phòng và 548 cây cột.

Với diện tích khổng lồ, nơi được mệnh danh là "Cung điện mùa hè" còn chính thức công nhận là "Di tích lịch sử thế giới" tại Trung Quốc vào năm 1998 với nhiều nét đẹp đặc biệt trong phong cách kiến trúc xây dựng và ý nghĩa phong thủy.

Hai người phụ nữ theo tục "bó chân gót sen"

Khi nhắc đến những phụ nữ thuộc thời kỳ nhà Thanh, hình ảnh những "bó chân gót sen" luôn được nhắc tới đầu tiên. Được biết, để có được đôi chân nhỏ nhắn, những phụ nữ này đã phải trải qua một loạt các bước vô cùng đau đớn ngay từ khi còn nhỏ. Tục lệ này quan trọng với phái nữ đến nỗi những cô gái không có bàn chân nhỏ thậm chí cũng khó kiếm được chồng.

Cũng do sự tàn nhẫn của hủ tục này, hủ tục bó chân đã gây ra vô số tranh cãi và phản đối và nhiều lần bị cấm. Mãi sau này khi xã hội trở nên hiện đại hơn, tục lệ bó chân mới được bãi bỏ hoàn toàn, phụ nữ mới thực sự được giải phóng khỏi việc bó chân.

Thợ đóng giày vào cuối triều đại nhà Thanh

Khác với việc đến các cửa hàng để mua hay mua một đôi giày được thiết kế riêng, vào cuối thời nhà Thanh có một nghề được gọi là "thợ đóng giày". Theo đó, thay vì mở cửa hàng, những người thợ này sẽ hoạt động dưới hình thứ như một gánh hàng rong đi bộ khắp nơi trên đường để giúp mọi người sửa giày hoặc may một đôi giày để đi lại.

Hoàng hậu Uyển Dung, hoàng hậu cuối cùng của triều đại nhà Thanh

Hoàng hậu Uyển Dung là vợ của vua Phổ Nghi, vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Quốc. Vào cung năm 16 tuổi với tư cách là hoàng hậu và được cho là vô cùng học thức khi bà đọc rất nhiều sách từ khi còn nhỏ cũng như thông thạo tiếng Anh, chơi piano, cờ vua, thư pháp và hội họa. Dù vô cùng xinh đẹp và tài giỏi nhưng sau khi nhà Thanh sụp đổ, hoàng hậu Uyển Dung đã bị trục xuất khỏi cung và sau đó sa ngã vào chất cấm và trở nên điên loạn.

Thái hoàng thái hậu (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: Grand Empress Dowager hay Grand Empress Mother), thường được giản gọi là Thái Hoàng (太皇) hay Thái Mẫu (太母)[1][2], là tước vị pháp định dành cho bà nội của Hoàng đế đang tại vị, trên tước vị Hoàng thái hậu dành cho mẹ của Hoàng đế, được dùng trong gia đình hoàng gia của các khối tương văn Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Cũng như trường hợp của Hoàng thái hậu, vị Hoàng đế tại vị có thể là Thứ xuất (mẹ là phi tần mà không phải Hoàng hậu), hoặc là từ dòng bên nhập tự, do đó có nhiều trường hợp mà Thái hoàng thái hậu có thể không thật sự là bà nội về mặt huyết thống của Hoàng đế tại vị mà chỉ là trên pháp lý. Trong hệ thống tước vị dành cho hậu phi, thì tước xưng này luôn là cao quý nhất, do vậy cũng có nhiều trường hợp người được tôn xưng chỉ đơn giản là đứng đầu phái nữ trong hoàng gia, mà không nhất thiết là bà nội của Hoàng đế.

Trong lịch sử Việt Nam, thời đại nhà Nguyễn còn chế định thêm một tước vị độc nhất vô nhị dựa trên danh hiệu Thái hoàng thái hậu, là Thái thái hoàng thái hậu (太太皇太后), dùng để tôn xưng cho một mình bà Từ Dụ (Nghi Thiên Chương Hoàng hậu), lúc này đã là Hoàng tằng tổ mẫu (bà cố) trên danh nghĩa của vua Thành Thái..

Tước hiệu ["Thái hoàng thái hậu"] dùng để tôn vinh người bà nội của Hoàng đế, địa vị ở trên các Hoàng thái hậu. Tước vị này lần đầu xuất hiện vào thời Tây Hán, ghi nhận trường hợp Bạc Cơ, mẹ của Hán Văn Đế Lưu Hằng và là bà nội của người kế nhiệm, Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Trước đó, Hoàng thái hậu Lữ Trĩ tuy là bà nội của Lưu Cung và Lưu Hồng, song bà vẫn chỉ xưng làm Hoàng thái hậu, mà không phải Thái hoàng thái hậu.

Tuy nhiên, bộ Sử ký Tư Mã Thiên không ghi lại danh hiệu này thời Cảnh Đế và chỉ gọi Bạc thị là ["Thái hậu"] và người đầu tiên ghi nhận lại là Hiếu Văn Đậu hoàng hậu, mẹ của Hán Cảnh Đế dưới thời cháu nội là Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Đến sách Hán thư, đã công nhận danh hiệu này xuất hiện trước đó, nhầm tấn tôn Bạc Cơ. Tiếp theo đó, từ nhà Hán làm nền tảng, các triều đại của Trung Quốc vẫn xem danh hiệu này là cao quý nhất. Danh vị này, sau đó truyền qua các triều đình theo văn hóa Hoa Hạ, như Việt Nam và Nhật Bản. Tại Việt Nam, danh hiệu này lần đầu tiên được biết đến là vào thời nhà Trần, người đầu tiên được tôn vị là Tuyên Từ hoàng hậu.

Khi Từ Hi Hoàng thái hậu lâm chung, chỉ định Phổ Nghi kế vị. Vì Từ Hi là bà nội trên pháp lý của Phổ Nghi, nên trong ngày hôm đó bà được tôn là Thái hoàng thái hậu, trước khi qua đời vài giờ sau. Đó cũng là vị Thái hoàng thái hậu cuối cùng của nhà Thanh và trong toàn bộ lịch sử Trung Quốc, cũng là Thái hoàng thái hậu tại vị ngắn nhất trong lịch sử.

Danh vị Thái hoàng thái hậu là danh vị cao nhất của một nữ quyến hoàng thất trong một gia đình hoàng tộc của các quốc gia Đông Á. Khi sách phong cho một Thái hoàng thái hậu, cũng như Hoàng thái hậu, đó gọi là 「Tấn tôn; 晉尊」, có Sách bảo (册宝) do chính Hoàng đế dẫn đầu bá quan văn võ đến dâng tiến trong đại lễ tấn tôn, quy định về tấn tôn.

Việc tấn tôn Thái hoàng thái hậu thường chia ra làm hai trường hợp chính:

Vì tôn hiệu đặc thù, trong nhiều triều đại tuy có thể có trên 2 vị Hoàng thái hậu, nhưng hầu như không có 2 vị Thái hoàng thái hậu cùng tôn vị. Điều cực hiếm này lại xảy ra cuối triều đại nhà Nguyễn ở Việt Nam, có Khôn Nguyên Xương Minh Thái hoàng thái hậu cùng Khôn Nghi Xương Đức Thái hoàng thái hậu thời Bảo Đại.

Mặt khác, vì vấn đề chính trị, cũng có nhiều tổ mẫu của Hoàng đế không tấn tôn địa vị Thái hoàng thái hậu. Điển hình như Lữ Thái hậu thời Hán Tiền Thiếu Đế Lưu Cung, tuy là Hoàng tổ mẫu của Hoàng đế nhưng vẫn giữ danh hiệu Hoàng thái hậu. Thời Đông Hán, Hiếu Nhân Đổng hoàng hậu, mẹ của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, tuy là bà nội của Hán Thiếu Đế Lưu Biện và Hán Hiến Đế Lưu Hiệp nhưng chưa từng nhận qua danh vị Thái hoàng thái hậu. Lại có Thiệu Thái hậu, bà nội của Minh Thế Tông, tuy là Hoàng tổ mẫu nhưng chưa từng được tôn làm Thái hoàng thái hậu, sau khi qua đời mới có thụy hiệu là Hiếu Huệ Thái hoàng thái hậu mà thôi.

Bên cạnh đó, cũng không thiếu một số các trường hợp Thái hoàng thái hậu không phải bà nội của Hoàng đế. Như Hiếu Chiêu Thượng Quan hoàng hậu vào thời Hán Nguyên Đế là "Thúc tằng tổ mẫu" (bà cố) của Hoàng đế, cũng chỉ giữ danh hiệu Thái hoàng thái hậu. Hoặc như Hiếu Nguyên hậu Vương Chính Quân thời Nhũ Tử Anh, trên danh nghĩa là đường tằng tổ mẫu (bà cố) của Hoàng đế, nhưng cũng chỉ tự tôn làm Thái hoàng thái hậu. Lại có Ý An Quách hoàng hậu, qua các triều đã là Thái hoàng thái hậu, nên dưới thời Đường Tuyên Tông vẫn giữ danh hiệu.

Tại Việt Nam, vai vế không đồng nhất cũng xuất hiện vào thời đại nhà Nguyễn. Khi Vua Hiệp Hòa nối ngôi sau khi Vua Dục Đức bị phế, di chiếu của Vua Tự Đức đã định sẵng nên tôn Hoàng thái hậu Phạm thị làm Từ Dụ Thái hoàng thái hậu. Vua Hiệp Hòa là con út của Vua Thiệu Trị, do vậy là con chồng của bà Từ Dụ và là em trai của Vua Tự Đức, nhưng vì tôn trọng di chiếu mà nhà Vua vẫn tôn mẹ cả Phạm thị làm Thái hoàng thái hậu[3].

Thời Hán Ai Đế Lưu Hân, do Ai Đế là nhận Hán Thành Đế làm hoàng phụ, trở thành Thái tử, nên khi lên ngôi ông nhận đích tổ mẫu là Vương Chính Quân làm Thái hoàng thái hậu và Hoàng hậu Triệu thị của Thành Đế làm Hoàng thái hậu. Nhưng ông vẫn tôn kính mẹ đẻ Đinh Cơ và bà nội là Phó Thái hậu, luôn tìm cách nâng địa vị của họ.

Thời kì này vẫn chưa có hệ thống huy hiệu hoàn chỉnh, do vậy Hán Ai Đế đã liên tiếp nghĩ ra nhiều dị thể từ danh hiệu Hoàng hậu và Hoàng thái hậu vốn có, và cuối cùng tạo nên một thời kì mà trong cung có một lúc 4 vị Thái hậu với những danh hiệu chưa từng có:

Thời Bắc Chu, Bắc Chu Tĩnh Đế Vũ Văn Diễn kế vị, cả hai vị Thái hậu tổ mẫu của Hoàng đế là Thiên Nguyên Thượng Hoàng thái hậu A Sử Na thị và Thiên Nguyên Thánh Hoàng thái hậu Lý thị đều còn sống. Triều đình Bắc Chu khi ấy quyết định:

Ở Hàn Quốc, nhà Triều Tiên chỉ xưng Vương, và hôn phối gọi là Vương phi, trên một đời là Vương đại phi, trên nữa là 「Đại vương đại phi; 大王大妃」. Sau khi qua đời mới tôn gọi là Vương hậu. Khác với Trung Quốc và Việt Nam, Đại vương đại phi của Triều Tiên không xét mối quan hệ của Đại phi với Quốc vương, mà chỉ đơn giản là tính theo số đời, cứ lên một đời là tăng, do vậy có nhiều trường hợp Đại vương đại phi không phải tổ mẫu của Quốc vương mà là Đích mẫu, như Nhân Nguyên Vương hậu thời Triều Tiên Anh Tổ vậy.

Trong lịch sử Nhật Bản, pháp định dành cho địa vị của Thái hoàng thái hậu không nhất định chỉ dành cho tổ mẫu của Thiên Hoàng, mà dựa vào địa vị từng có theo các đời tương tự Triều Tiên. Ví dụ như Chính Tử Nội thân vương (正子內親王), Hoàng hậu của Thiên hoàng Junna, vốn là thúc mẫu của vị Thiên hoàng tiếp theo là Thiên hoàng Ninmyō nên được tôn làm Hoàng thái hậu, đến triều tiếp theo là Thiên hoàng Montoku thì lại được tôn làm Thái hoàng thái hậu. Hoặc như Quất Gia Trí Tử, sinh mẫu của Thiên hoàng Ninmyō được con trai tôn làm Thái hoàng thái hậu, vì ở triều đại Thiên hoàng trước đó bà đã là Hoàng thái hậu. Vào cuối thời Heian, Thái hoàng thái hậu theo pháp định cũng dần trở thành một loại vinh hàm, chỉ dùng để sắc phong cho nữ quyến trong hoàng thất có địa vị cao, như Nhị Điều Hoàng thái hậu Lệnh Tử Nội thân vương (令子內親王). Từ khi Đằng Nguyên Đa Tử (藤原多子) của Thiên hoàng Konoe được sách phong đến nay, Nhật Bản đã qua 800 năm chưa từng xuất hiện lại một người phụ nữ nào mang danh vị Thái hoàng thái hậu.

Trong khi ở lịch sử Việt Nam, hoàng thất nhà Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, nhà Nguyễn đều tôn xưng Thái hoàng thái hậu theo đúng vai vế tương tự Trung Quốc. Các chúa Trịnh xưng Vương, quyền thay Hoàng đế nhà Lê, nên cũng mô phỏng quy cách hoàng thất, tôn bà nội của chúa là 「Thái tôn thái phi; 太尊太妃」. Một số trường hợp Thái tôn Thái phi được Hoàng đế nhà Lê thiện đãi, gia phong tôn hiệu, đều thường là 「Quốc mẫu; 國母」 hay 「Quốc Thái mẫu; 國太母」. Vào thời nhà Nguyễn, Nghi Thiên Chương Hoàng hậu vào thời Thành Thái, đã là Đích tằng tổ mẫu (bà cố) của đương kim Hoàng đế. Trong lịch sử, bà cố của Hoàng đế không được ghi lại tôn hiệu, nên Thành Thái đã chế định ra tôn hiệu cho bà, gọi là 「Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái thái hoàng thái hậu; 慈裕博惠康壽太太皇太后」, và đây cũng là danh hiệu duy nhất tồn tại dành cho Tằng tổ mẫu của Hoàng đế trong lịch sử các quốc gia đồng văn Đông Á.

Việc lựa chọn những phi tần đắc sủng chốn hậu cung dựa vào mẫu tộc bề thế chống lưng phía sau không còn là chuyện hiếm trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Trên thực tế, khi một Hoàng đế lên ngôi sẽ có người mừng, kẻ ghen ghét. Nhiều Hoàng đế khi có cơ hội nắm giữ ngai vàng vẫn phải đối mặt với nhiều thế lực chống đối, luôn tìm cách lật đổ. Bởi vậy, việc có được một gia tộc nhà vợ hùng mạnh, Hoàng đế sẽ có thể củng cố quyền lực, ngồi vững vàng trên ngôi vị cửu ngũ chí tôn.

Để lựa chọn một phi tần đưa lên ngôi vị “mẫu nghi thiên hạ”, Hoàng đế phải nhìn vào gia thế của nhà vợ. Từ đó có thể rút ra rằng, phi tần nào có gia tộc hùng mạnh chống lưng thì ắt sẽ được ưu tiên phần nào trên con đường tranh sủng. Đối với những gia đình nhà vợ này, Hoàng đế năm phần nể trọng, năm phần lo sợ.

Cũng bởi được Hoàng đế sủng ái, gia tộc hiển hách, nắm trong tay nhiều quyền lực mà không ít người khi lên được ngôi vị đứng đầu hậu cung liền kéo bè kết phái, chèn ép người khác. Điều này khiến cho hậu cung dậy sóng, tạo nên nhiều áp lực cho Hoàng đế. Không dừng lại ở đó, khi thấy người nhà trở thành Hoàng hậu, nhiều mẫu tộc làm tới, lấn lướt làm lũng đoạn chính trường, gây hại cho quốc gia.

Bởi vậy, đến giai đoạn nhà Thanh, dù hôn nhân vẫn mang tính chính trị, ràng buộc, giúp đỡ lẫn nhau này vẫn tồn tại, song, bởi nhận thấy mặt hại của các mẫu tộc hùng mạnh mà rất nhiều đời Hoàng đế Mãn Thanh đều có xu hướng kết nạp nhiều phi tần chỉ thuần với mục đích duy trì nòi giống. Điều này giúp cho Hoàng gia vẫn có được con đàn cháu đống mà không phải vì quyền lực mà nể mặt bất cứ ai. Theo đó, họ sẽ chọn những nữ nhân có xuất thân trong sạch, nhưng mẫu tộc lại không có quá nhiều quyền lực trên chính trường.

Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị (tức Từ Hi Thái hậu).

Các Hoàng đế triều Thanh nếu ân sủng một phi tần nào đó còn có thể nâng tước vị cho họ trở thành Hoàng hậu. Ưu điểm của những phi tần không có gia thế là họ sẽ công bằng nghiêm minh, không có sự thiên vị, hống hách, kết bè phái sau lưng Hoàng đế. Điều này giúp cho hậu cung sẽ yên bình. Bởi biết gia tộc của mình hoàn toàn mờ nhạt nên nếu một Hoàng hậu, phi tần nào đó đắc tội với Hoàng đế thì sẽ dễ gây ra họa diệt vong, ảnh hưởng gia đình.

Trong số những gia tộc cao quý thuộc dạng không có quyền lực nhiều trên chính trường, nhưng lại sản sinh ra nhiều Hoàng hậu, phi tần cho các đời Hoàng đế Thanh triều, nổi lên hai cái tên rất nổi bật: Nữu Hỗ Lộc thị và Na Lạp thị bao gồm Diệp Hách Na Lạp, Ô Lạt Na Lạp. Hai gia tộc nổi tiếng này đều thuộc Bát Kỳ Mãn Châu.

11 Hoàng hậu và hàng loạt phi tần

Nữu Hỗ Lộc thị xuất sinh nhiều Hoàng hậu, phi tần của nhà Thanh, với cả thảy 6 phi tần và 6 vị Hoàng hậu (bao gồm cả trường hợp được con trai sau khi lên ngôi hoàng đế truy phong cho mẹ mình).

Nữu Hỗ Lộc thị là một họ của người Nữ Chân rất phổ biến triều nhà Thanh. Độ phổ biến và nối tiếng của họ này được liệt vào một trong những dòng họ quý tộc Mãn Châu nổi tiếng dưới triều đại nhà Thanh.

Nữu Hỗ Lộc thị được cho là khởi nguồn từ vùng núi Trường Bạch, thuộc tỉnh Cát Lâm ngày nay, giữa hai con sông Tùng Hoa và Mẫu Đơn. Theo những ghi chép trong gia phả, ông tổ 6 đời Ngạch Diệc Đô, thành viên Nữu Hỗ Lộc thị nổi tiếng đầu tiên được ghi lại trong tài liệu lịch sử đời Thanh. Với sự hỗ trợ đắc lực của Ngạch Diệc Đô và thị tộc Nữu Hỗ Lộc, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lần lượt thống nhất được các bộ tộc Nữ Chân để hình thành nhà nước Mãn Thanh.

Khi hệ thống Bát Kỳ ra đời, để tưởng thưởng cho lòng trung thành và công lao của Ngạch Diệc Đô, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xếp Nữu Hỗ Lộc thị thuộc vào Tương Hoàng kỳ, trong nhóm Thượng Tam Kỳ, biến thị tộc này thành một trong những thị tộc có thế lực nhất trong Bát Kỳ. Đến thời cực thịnh của nhà Thanh, hầu như các kỳ trong Bát kỳ đều có các thành viên của Nữu Hỗ Lộc thị giữ những vị trí trọng yếu.

Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị - Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là mẹ của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế.

Dưới triều đại nhà Thanh, có tới 12 phi tần, Hoàng hậu nhà Thanh có xuất sinh từ gia tộc Nữu Hỗ Lộc thị. Triều đại Hoàng Thái Cực (Thanh Thái Tông): Thái Tông nguyên phi; Khang Hi (Thanh Thánh Tổ): Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu (kế hậu); Ôn Hy Quý phi (em gái Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu), Thánh Tổ Thứ phi; Ung Chính (Thanh Thế Tông): Hi Quý phi (mẫu thân của Càn Long, truy phong là Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu); Gia Khánh (Thanh Nhân Tông): Hiếu Hòa Duệ hoàng hậu (kế hậu), Cung Thuận hoàng quý phi; Đạo Quang (Thanh Tuyên Tông): Hiếu Mục Thành hoàng hậu (là phúc tấn lúc Đạo Quang còn là hoàng tử, về sau truy phong hoàng hậu), Hiếu Toàn Thành hoàng hậu (kế hậu), Tường phi, Thành quý phi; Hàm Phong (Thanh Văn Tông): Hiếu Trinh Hiển hoàng hậu (kế hậu).

Còn với gia tộc Na Lạp thị thì họ có bao gồm 4 tộc nhỏ: Cáp Đạt Ná Lạp, Huy Phát Na Lạp, Ô Lạt Na Lạp và Diệp Hách Na Lạp. Người thuộc gia tộc này vốn có xuất thân và sinh sống tại khu vực Hải Tây, ngày nay là các vùng Cát Lâm, Hắc Long Giang, Liêu Ninh và Nội Mông Cổ.

Trong đó, hai tộc nhỏ là Ô Lạt Na Lạp và Diệp Hách Na Lạp là nổi tiếng nhất vì có nhiều nữ nhân giữ những vị trí cao quý trong hậu cung của nhiều đời Hoàng đế Thanh triều. Đặc biệt, hai trong bốn vị Đại Phúc Tấn đầu tiên của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích cũng thuộc hai gia tộc này. Và cả Từ Hy Thái hậu cũng có xuất thân từ tộc Diệp Hách Na Lạp.

Danh sách phi tần, Hoàng hậu nhà Thanh có xuất sinh từ gia tộc Na Lạp có Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Thanh Thái Tổ): Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp Mạnh Cổ Triết Triết, Hiếu Liệt Vũ Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp A Ba Hợi (truy phong); Ung Chính (Thanh Thế Tông): Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị; Càn Long (Thanh Cao Tông): Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị, Thư phi Diệp Hách Na Lạp thị, Hòa phi Na Lạp thị (không rõ thuộc tộc nhánh nào trong Na Lạp thị); Hàm Phong (Thanh Văn Tông): Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị ( tức Từ Hi Thái Hậu, sau được truy phong thành Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu); Quang Tự (Thanh Đức Tông): Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị.

Tuy nhiên, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích từng bước thống nhất người Nữ Chân xây dựng triều đại nhà Thanh thì các tộc Na Lạp đã phản đối kịch liệt vì họ được nhà Minh đối xử khá tốt. Mặt khác, họ không thích chiến tranh nên cố gắng thoả hiệp với Nỗ Nhĩ Cáp Xích bằng các cuộc hôn nhân chính trị với con gái của các chủ tộc.

Ngược lại, Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn muốn khai chiến với Na Lạp thị. 3 trong 4 tộc nhỏ của Na Lạp thị là Cáp Đạt, Ô Lạt và Huy Phát lần lượt sụp đổ. Chỉ riêng có Diệp Hách Na Lạp chống cự quyết liệt vì là tộc lớn nhất và mạnh nhất, và còn do họ được sự tương trợ của nhà Minh. Nhưng rồi cuối cùng, vẫn không chống lại quyền lực quân sự quá lớn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích.